Tuần 29 – Về luân lí xã hội ở nước ta (trích Đạo đức và luân lí Đông Tây)

Tuần 29 – Về luân lí xã hội ở nước ta (trích Đạo đức và luân lí Đông Tây)

Hướng dẫn

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Phan Châu Trinh (1872 – 1926) người xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Ông đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu (1901), làm quan một thời gian ngắn rồi từ quan đi làm cách mạng. Phan Châu Trinh là người chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, huỷ bỏ chế độ Nam triều, cải cách đổi mới mọi mặt (duy tân) làm cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia. Tuy con đường cứu nước của Phan Châu Trinh có phần ảo tưởng nhưng nhiệt huyết của ông rất đáng khâm phục. Phan Châu Trinh rất chú trọng và luôn có ý thức dùng văn chương để làm cách mạng.

2. Văn chính luận thường hướng tới luận bàn về thực trạng, nguyên nhân và hướng khắc phục, giải quyết những vấn đề chính trị -xã hội, trong đó, đôi khi còn bình luận, liên tưởng, mở rộng về những gì có liên quan đến vấn đề đó. Văn chính luận có thể mang sắc thái khách quan hoặc chủ quan, tất cả tuỳ theo chủ định của người viết. Bài viết thường được triển khai bằng một hệ thống lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, các chứng cứ cụ thể, xác thực. Văn chính luận có hiệu quả xã hội rộng lớn. Nó được coi là lợi thế của những người hoạt động chính trị.

3. Ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, các nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc,… đều sử dụng văn chính luận để tuyên truyền, phổ biến, thể hiện chủ trương, đường lối cách mạng của mình, về luân lí xã hội ở nước ta là một đoạn trích trong phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19 – 11 – 1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn. Bài diễn thuyết đề cao tác dụng của đạo đức, luân lí, khẳng định nguyên nhân mất nước là do dân ta để mất đạo đức, luân lí truyền thống. Phan Châu Trinh cho đạo đức là cái bất biến, còn luân lí là cái có thể thay đổi, vì thế muốn nước ta thoát khỏi thảm cảnh hiện thời thì cần phải cải tổ nền luân lí cũ nát, xây dựng luân lí mới trên nền tảng đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Phan Châu Trinh khẳng định các nước phương Tây tiến bộ, giàu mạnh là do có nền đạo đức, luân lí tương tự với đạo đức, luân lí Khổng – Mạnh, cho nên "muốn nước ta có một nền đạo đức, luân lí vững vàng, thì có gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa Âu châu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc rất thần hiệu để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng – Mạnh về". Tư tưởng đó của bài diễn thuyết thể hiện rất tập trung trong đoạn trích này.

II – HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU BÀI

1. Đoạn trích gồm ba phần. Có thể tóm lược ý chính của từng phần như sau:

– Ở nước ta chưa có luân lí xã hội, mọi người chưa có ý niệm gì về luân lí xã hội.

– Bên châu Âu, luân lí xã hội đã phát triển. Ở ta, ý thức về đoàn thể xưa cũng đã có nhưng nay đã sa sút, người nước ta không biết cái nghĩa vụ của mỗi người trong nước đối với nhau, chưa biết hợp sức giữ quyền lợi chung. Bọn vua quan không muốn dân ta có tinh thần đoàn thể mà dân càng nô lệ thì ngôi vua càng lâu dài, quan lại càng phú quý.

Xem thêm:  Tuần 24 - Từ ấy

– Nay nước Việt Nam muốn được tự do, độc lập thì trước hết phải tuyên truyền xã hội chủ nghĩa, phải có đoàn thể để lo công ích, mọi người lo cho quyền lợi của nhau.

Ba phần trên của bài luận thuyết liên hệ chặt chẽ với nhau theo mạch diễn giải: hiện trạng chung – biểu hiện cụ thể – giải pháp.

Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là cần phải truyền bá chủ nghĩa xã hội ở nước Việt Nam để gây dựng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng tới mục đích giành độc lập, tự do.

2. Bài này dược Phan Châu Trinh trình bày trong buổi diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn vào đêm 19 – 11 – 1925 và tất nhiên đối tượng của bài diễn thuyết trước hết là những người nghe tại buổi diễn thuyết đó (sau đó mới là toàn thể đồng bào, "người nước mình", "anh em", "dân Việt Nam",…). Chính bởi vậy mà có thể thấy rằng, cách đặt vấn đề của tác giả là khá thẳng thắn, gây ấn tượng mạnh cho người nghe. Vấn đề được trình bày và khẳng định là: ở Việt Nam chưa có luân lí xã hội.

Để đánh tan những ngộ nhận có thể có ở người nghe về sự hiểu biết của chính họ trên vấn đề này, tác giả dùng cách nói phủ định: "Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều". Tiếp đó, lường trước khả năng hiểu đơn giản, thậm chí xuyên tạc vấn đề của không ít người, tác giả đã khẳng định: "Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì".

Cách vào đề này cho thấy tư duy sắc sảo, nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.

3. Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh bên Âu châu, bên Pháp với bên mình về luân lí xã hội. Theo tác giả, quan niệm, nguyên tắc cốt yếu của luân lí xã hội là ý thức nghĩa vụ giữa người với người. "Người với người" là người này với người kia, mỗi người với mọi người, cá nhân với cộng đồng (cộng đồng như là gia đình lớn, lớn hơn là đồng bào, quốc gia, thế giới). Tác giả bắt đầu với "cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu" – cái xã hội rất đề cao dân chủ, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn cả thế giới. Dẫn chứng cụ thể là: "Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng kì cho đến được công bình mới nghe". Nguyên nhân của hiện tượng đó là "vì người ta có đoàn thể, có công đức" (ý thức sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác).

Còn "bên mình" thì "Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người", không biết cái nghĩa vụ của mỗi người đối với nhau, dẫn đến tình trạng ai sống chết mặc ai, người này không biết quan tâm đến người khác. Dẫn chứng cụ thể là: "Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình". Có hiện tượng ấy là do "người nước mình" thiếu ý thức đoàn thể.

Xem thêm:  Tuần 22 - Tràng giang

4. Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích. Tác giả khẳng định, thực ra từ hồi cổ sơ, ông cha ta cũng đã có ý thức đoàn thể, cũng biết đến công ích (việc lợi chung), biết "góp gió thành bão, giụm cây làm rừng". Nhưng rồi lũ vua quan phản động, thối nát "ham quyền tước, ham bả vinh hoa", "muốn giữ túi tham mình được đầy mãi" nên chúng đã tìm cách "phá tan tành đoàn thể của quốc dân". Phan Châu Trinh hướng mũi nhọn đả kích vào bọn chúng, những kẻ mà ông khi thì gọi là "bọn học trò", khi thì gọi là "kẻ mang đai đội mũ", "kẻ áo rộng khăn đen”, khi lại gọi là "bọn quan lại", "bọn thượng lưu", "dám quan trường",… Chỉ qua cách gọi tên như thế, chúng ta cũng có thể thấy rõ sự căm ghét cao độ của Phan Châu Trinh với tầng lớp quan lại Nam triều lúc đó. Bọn chúng không quan tâm đến cuộc sống của nhàn dân, mà trái lại, dân càng tối tăm, khốn khổ thì chúng càng dễ bề thống trị, dễ bề vơ vét. Để thêm giàu sang phú quý, chúng "rút tỉa của dân", "lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa…". Dân không có ý thức đoàn thể nên chúng lộng hành như thế mà "cũng không ai phẩm bình… không ai chê bai". Thấy làm quan lợi lộc đầy đủ mà không ai bị tố cáo, lên án, đánh đổ, nên bọn người xấu đua nhau tìm đủ mọi cách, "nào chạy ngược nào chạy xuôi" để được làm quan "đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi".

Dưới con mắt của Phan Châu Trinh, chế độ vua quan chuyên chế như thế thật vô cùng tồi tệ, cần phải phủ định một cách triệt để. Những hình ảnh gợi tả, lối ví von sắc bén trong đoạn văn này đã thể hiện mạnh mẽ thái độ phủ định đó: "Có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới"; "Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy".

Từ những lập luận trên đây, tác giả khẳng định, chỉ có xoá bỏ chế độ vua quan chuyên chế, gây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, "truyền bá chủ nghĩa xã hội" mới là con đường đi đúng đắn, tất yếu để nước Việt Nam có tự do, độc lập, một tương lai tươi sáng.

5. Nổi bật trong bài văn là yếu tố nghị luận: cách lập luận chặt chẽ, lô gích; nêu chứng cứ cụ thể, xác thực; giọng văn mạnh mẽ hùng hồn; dùng từ đặt câu chính xác, biểu hiện lí trí tỉnh táo, tư duy sắc sảo, đạt hiệu quả cao về nhận thức tư tưởng.

Bài văn có sự kết hợp giữa yếu tố nghị luận với yếu tố biểu cảm. Tác giả đã phát biểu chính kiến của mình không chỉ bằng lí trí tỉnh táo mà còn bằng trái tim dạt dào cảm xúc, thấm thía nỗi xót đau trước tình trạng tăm tối, thê thảm của xã hội Việt Nam đương thời. Điều đó biểu hiện ở những câu cảm thán: "Thương hại thay!… Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi!… Thương ôi!…"; các câu mở rộng thành phần để nhấn mạnh ý ("Luân lí của bọn thượng lưu – tôi không gọi bọn ấy là thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi – ở nước ta là thế đấy!"); những cụm từ ẩn chứa tình cảm đồng bào, tình cảm dân tộc sâu nặng, thắm thiết (người nước ta, người trong nước, người mình, ông cha mình, quốc dân, anh em, người trong một làng đối với nhau, dân Việt Nam này); lời văn nhẹ nhàng, từ tốn ("Là vì người ta có đoàn thể, có công đức biết giữ cái lợi chung vậy… Đã biết sống thì phải bênh vực nhau, ông cha mình ngày xưa cũng đã hiểu đến…"). Những yếu tố biểu cảm ấy đã làm cho lí lẽ của bài diễn thuyết tăng thêm sức thuyết phục, lay chuyển mạnh mẽ nhận thức và tình cảm ở người nghe.

Xem thêm:  Tuần 19 - Nghĩa của câu

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Phần Tiểu dẫn đã nói rõ Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, huỷ bỏ chế độ Nam triều, cải cách đổi mới (duy tân) mọi mặt làm cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia. Trong bài diễn thuyết này, cùng với việc thúc đẩy gây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, Phan Châu Trinh vạch trần sự xấu xa, thối nát của chế độ vua quan chuyên chế là nhằm mục đích ấy. Có thể hình dung tâm trạng Phan Châu Trinh khi viết đoạn trích này là căm ghét bọn quan lại phong kiến, thương xót đồng bào, lo lắng cho đất nước, hi vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

2. Có thể cảm nhận ít nhiều được tấm lòng của Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này. Thấm sâu trong từng từ ngữ của đoạn trích là tấm lòng của một người có tình yêu đất nước thiết tha, quan tâm đến vận mệnh của dân tộc, xót xa thương cảm trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân, hết sức căm ghét bọn quan lại xấu xa, thối nát. Đoạn trích cũng cho thấy tầm nhìn xa rộng, sắc sảo của Phan Châu Trinh. Ông thấy được mối quan hệ mật thiết giữa truyền bá xã hội chủ nghĩa, gây dựng tinh thần đoàn thể với sự nghiệp giành tự do, độc lập. Tất nhiên, cái đích cuối cùng là giành độc lập, tự do nhưng lựa chọn bước đi phải tỉnh táo. Phan Châu Trinh nhận thấy sự thực dân trí nước ta quá thấp, ý thức đoàn thể của người dân rất kém (những điều gây trở ngại cho việc cứu nước), cho nên ông kêu gọi gây dựng đoàn thể (ý thức trách nhiệm với xã hội, quốc gia, dân tộc). Nhưng muốn có đoàn thể thì phải có tư tưởng mới, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, vì thế phải "truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này".

3. Chủ trương gây dựng nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh cho đến ngày nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nó nhắc nhở về tầm quan trọng của việc gây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, nhằm tạo nên ý thức trách nhiệm với cộng đồng, với tương lai đất nước của mọi người sống trong xã hội. Nó cũng cảnh báo nguy cơ tiêu vong các quan hệ xã hội tốt đẹp nếu vẫn còn những kẻ ích kỉ, "ham quyền tước, ham bả vinh hoa", tìm cách vơ vét cho đầy túi tham mà không muốn bị ai lên án.

Mai Thu