Tuần 25 – Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt
Hướng dẫn
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Những yêu cầu cơ bản khi sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp
– Về ngữ âm và chữ viết: cần phát âm theo âm thanh chuẩn của tiếng Việt, viết đúng theo các quy tắc hiện hành về chính tả và về chữ viết nói chung.
– Về từ ngữ: cần dùng từ ngữ đúng với hình thức và cấu tạo, với ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của chúng trong tiếng Việt.
– Về ngữ pháp: cần đặt câu theo đúng quy tắc ngữ pháp, diễn đạt đúng các quan hệ ý nghĩa. Đồng thời cần phẳi sử dụng một cách linh hoạt các biện pháp liên kết câu nhằm làm cho các câu trong văn bản được chặt chẽ, rõ ràng, mạch lạc và thống nhất.
– Về phong cách ngôn ngữ: cần nói và viết phù hợp với các đặc trưng và chuẩn mực trong từng phong cách chức năng ngôn ngữ.
2. Sử dụng tiếng Việt hay và hiệu quả trong giao tiếp
Khi nói và viết, chẳng những cần sử dụng tiếng Việt đúng theo các chuẩn mực của nó mà còn có thể sử dụng một cách sáng tạo. Sử dụng sáng tạo và linh hoạt tiếng Việt là vận dụng các phương thức và các quy tắc chung của tiếng Việt theo các phép tu từ để cho lời nói, câu văn có tính nghệ thuật và đạt hiệu quả cao trong giao tiếp.
II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
1. Sửa lỗi về ngữ âm và chữ viết.
a) Hãy phát hiện lỗi về chữ viết (chính tả) và chữa lại cho đúng:
– Không giặc quần áo ở đây.
– Khi sân trường khô dáo, chúng em chơi đá cầu hoặc đánh bi.
– Tôi không có tiền lẽ, anh làm ơn đỗi cho tôi.
b) Đọc đoạn hội thoại sau đây giữa một người cháu (ở thành phố) với một người bác (ở nông thôn ra chơi) và phân tích sự khác biệt của những từ phát âm theo giọng địa phương so với những từ tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân:
– Thế tại sao đang ở thành phố, bác lại về nhà quê?
– À… chuyện ấy thì dài lắm. Nhẩn nha rồi bác kể. Dưng mờ… chẳng qua cũng là do cái duyên, cái số… Gì thế, cháu?
– Bác nói giọng nó khang khác thế nào ấy. Trời bác nói là giời Nhưng mà bác nói là dưng mờ. Bảo bác nói là bẩu.
– Ăn nước ở đâu nói giọng ở dó mờ, cháu…
(Ma Vãn Kháng, Heo may gió lộng)
Gợi ý:
a) Lỗi mà các câu trên đã mắc là:
Các từ bị phát âm sai dẫn đến viết sai chuẩn.
– giặt —> giặc: nói và viết sai phụ âm cuối.
– ráo —> dáo: nói và viết sai phụ âm đầu.
– lẻ, đổi —> lẽ, đỗi: nói và viết sai thanh điệu (sai dấu thanh).
b) Lời nói của nhân vật bà bác trong đoạn văn của Ma Vãn Kháng có nhiều từ ngữ nói theo âm địa phương, khác với ậm trong ngôn ngữ chung: dưng mờ (nhưng mà), mờ (mà), bẩu (bảo), giời (trời). Các từ địa phương loại này nếu không dùng với mục đích sáng tạo nghệ thuật thì rõ ràng không nên khuyến khích sử dụng trong giao tiếp vì nếu được sử dụng nó sẽ cản trở quá trình giao tiếp. Trong thực tế, rất cần tiến tới thống nhất về phát âm và chữ viết theo chuẩn ngôn ngữ chung,, khắc phục những lỗi phát âm địa phương, để quá trình giao tiếp giữa mọi người diễn ra hiệu quả.
2. a) Hãy phát hiện và chữa lỗi về từ ngữ trong các câu sau:
(1) Khi ra pháp trường, anh ấy vẫn hiên ngang đến phút chót lọt.
(2) Những học sinh trong trường sẽ hiểu sai các vấn đề mà thầy giáo truyền tụng.
(3)Số người mắc và chết các bệnh truyền nhiễm đã giảm dần.
(4)Những bệnh nhân không cần phải mổ mắt được khoa Dược tích cực pha chế, điều trị bằng những thứ thuốc tra mắt đặc biệt.
b) Lựa chọn những câu dùng từ đúng trong các câu sau:
(1)Anh ấy có một yếu điểm: không quyết đoán trong công việc.
(2)Điểm yếu của họ là thiếu tinh thần đoàn kết.
(3)Bọn giặc đã ngoan cố chống trả quyết liệt.
(4)Bộ đội ta đã ngoan cường chiến đấu suốt một ngày đêm.
(5)Tiếng Việt rất giàu âm thanh và hình ảnh, cho nên có thể nói đó là thứ tiếng rất linh động, phong phú.
Gợi ý:
a) Các lỗi sai về từ ngữ trong các câu là:
– Câu (1): dùng từ sai về cấu tạo: chót lọt. Cần thay bằng từ chốt.
– Câu (2): nhầm lẫn từ Hán Việt gần âm, gần nghĩa: truyền tụng. Cần chữa lại là: truyền thụ hoặc truyền đạt.
– Câu (3): Sai về kết hợp từ, thông thường, người ta chỉ nói hoặc viết là “mắc các bệnh truyền nhiễm", chứ không thể là "chết các bệnh truyền nhiễm". Cần chữa là: Số người mắc và chết vì các bệnh truyền nhiễm đã giảm dần.
– Câu (4): Câu này cũng sai về kết hợp từ: viết "bệnh nhân được điều trị" thì đúng, nhưng nếu viết "bệnh nhân được pha chê" thì sai. Cần chữa lại, chẳng hạn như: Những bệnh nhân không cần phải mổ mắt được điều trị tích cực bằng những thứ thuốc tra mắt đặc biệt mà khoa Dược đã pha chế.
b) Lựa chọn những câu đúng:
– Các câu (2), (3), (4) là những câu đúng.
– Câu (1) sai từ "yếu điểm", cần chữa thành ‘‘điểm yếu".
– Câu (5) sai từ "linh động", cần chữa thành "sinh động".
3. a) Hãy phát hiện và chữa lỗi về ngữ pháp trong các câu sau:
(1)Qua tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố đã cho thấy hình ảnh người phụ nữ nông thôn trong chế độ cũ.
(2)Lòng tin tưởng sâu sắc của những thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung kích sẽ tiếp bước mình.
b) Lựa chọn những câu văn đúng trong các câu sau:
(1)Có được ngôi nhà đã làm cho bà sống hạnh phúc hon.
(2)Ngôi nhà đã làm cho bà sống hạnh phúc hơn.
(3)Có được ngôi nhà, bà Sống hạnh phúc hơn.
(4)Ngôi nhà đã mang lại niềm hạnh phúc cho cuộc sống của bà.
c) Từng câu trong đoạn văn sau đều đúng, nhưng đoạn văn không có được tính thống nhất, chặt chẽ. Hãy phân tích lỗi và chữa lại.
Thuỷ Kiều và Thuỷ Vân đều là con gái của ông bà Vưong viên ngoại. Nàng là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống hoà thuận hạnh phúc với cha mẹ. Họ sống êm ấm dưới một mái nhà, cũng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. vẻ đẹp của Kiêu hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Còn Vân có nét đẹp đoan trang thuỳ mị. Cồn về tài thì nàng hơn hẳn Thuỷ Vân. Thế nhưng nàng đâu có được hưởng hạnh phúc.
Gợi ý:
a) Phát hiện và sứa lỗi về ngữ pháp trong các câu đã cho:
– Câu (1): lỗi của câu này là người viết không phân định rõ các thành phần trạng ngữ và chủ ngữ của câu. Có thể nêu ra mấy cách chữa sau (tuỳ thuộc vào vị trí của câu trong văn bản, vào mối quan hệ của câu này với những câu khác trong vãn bản mà lựa chọn cho phù hợp):
+ Bỏ từ “qua” ờ đầu câu.
+ Bỏ từ “của” và thay vào đó bằng dấu phẩy.
+ Bỏ cụm từ “đã cho thấy” và thay vào đó bằng dấu phẩy, đồng thời thêm một vị ngữ vào cuối câu.
– Câu (2): Cả câu này mới chỉ là một cụm danh từ được phát triển dài, chưa đủ các thành phần chính của câu. Cần chữa bằng cách tạo cho câu có đủ hai thành phần chính. Có thể chữa theo một trong những cách sau:
+ Đó là lòng tin tưởng sâu sắc của các thế hệ cha anh vào lực lượng măng non xung kích, những lớp người sẽ tiếp bước mình. (Thêm chủ ngữ cho câu).
+ Lòng tin tưởng sâu sắc của các thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung kích, những lớp người sẽ tiếp bước họ, dã được biểu hiện trong tác phẩm. (Thêm vị ngữ cho câu).
b) Chọn câu đúng.
Câu (1) sai vì người viết đã không phân định được rõ thành phần phụ trạng ngữ với chủ ngữ của câu. Các câu sau đều là những câu đúng.
c) Nhận xét về đoạn văn:
– Đoạn vãn này tập hợp toàn những câu đúng nhưng cả đoạn vẫn không có được tính thống nhất, chặt chẽ vì các câu chưa có mối liên hệ với nhau. Giữa các câu còn khá lộn xộn và thiếu liên kết lô gích.
– Cách sửa: Cần sắp xếp lại các câu, các vế câu và thay đổi một số từ ngữ để ý của đoạn văn mạch lạc và phát triển theo trình tự hợp lí. Chẳng hạn:
Thuý Kiều và Thuý Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. Họ sống êm ấm dưới một mái nhà, hoà thuận và hạnh phúc cùng cha mẹ. Họ đều có những nét xinh đẹp tuyệt vời. Thuý Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, vẻ đẹp củanàng hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Còn Thuý Vân có nét đẹp đoan trang, thuỳ mị. về tài thì Thuỷ Kiều hơn hẳn Thuý Vân. Thế nhưng, nàng đâu có được hưởng hạnh phúc.
4. a) Hãy phân tích và chữa lại những từ dùng không phù hợp với phong cách ngôn ngữ:
– Trong một biên bản về một vụ tai nạn giao thông:
(1)Hoàng hôn ngày 25-10, lúc 17h30, tại km 19 quốc lộ 1A đã xảy ra một vụ tai nạn giao thông.
– Trong một bài văn nghị luận:
(2)“Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã nêu cao một tư tưởng nhân đạo hết sức là cao đẹp.
b) Hãy nhận xét về các từ ngữ thuộc ngôn ngữ nói trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt ở đoạn sau đây:
Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt ải ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù; bẩm có thế, con có dám nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù.
(Nam Cao, Chí Phèo)
(Chú ý cách dùng các từ xưng hô, từ ngữ đưa đẩy, thành ngữ, tục ngữ, cách nói ấp úng,… của Chí Phèo).
Những từ ngữ và cách nói như trên có thể sử dụng trong một lá đơn đề nghị được không? Vì sao?
Gợi ý:
a) Lỗi sai trong các câu là:
– Câu (1): Sai từ hoàng hôn. Hoàng hôn tuy có nghĩa là buổi chiều tà (chiều muộn), nhưng thông thường nó chỉ dùng trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật hoặc trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, không thể dùng trong biên bản hành chính. Có thể bỏ từ này bởi đằng sau nó đã có từ ngữ chỉ thời gian một cách chính xác (lúc 17h30).
– Câu (2): Lỗi sai nằm ở từ hết sức. Hết sức là từ chỉ mức độ cao (tương đương với rất, vô cùng…) nhưng chỉ dùng trong ngôn ngữ nói thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Đây là vãn bản nghị luận, nên cần thay thế từ này bằng từ rất hoặc vô cùng.
b) Lời thoại của Chí Phèo trong đoạn vãn của Nam Cao có nhiều từ ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt như:
– Các từ xưng hô: bẩm, cụ, con.
– Thành ngữ: trời tru đất diệt, một thước cắm dùi không có.
– Các từ ngữ mang sắc thái khẩu ngữ: sinh ra, có dám nói gian, quả, về làng về nước, chả làm gì nên ăn,…
Các từ ngữ trên không thể dùng trong một lá đơn đề nghị, dù mục đích lời nói của Chí Phèo cũng là khẩn cầu, giống mục đích của một đơn đề nghị. Đơn đề nghị là văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ hành chính. Vì vậy, cách dùng từ và diển đạt phải khác lời nói, phải đảm bảo sự trang trọng và nghiêm túc.
5. Trong câu tục ngữ “Chết đứng còn hơn sống quỳ", các từ đứng và quỳ được dùng với nghĩa chuyển. Chúng không biểu hiện các tư thế của thân thể con người, mà theo phép ẩn dụ, chúng biểu hiện nhân cách, phẩm giá: “chết đứng" là chết hiên ngang, có khí phách cao đẹp, còn “sống quỳ" là sống luồn cúi, quỵ luỵ, hèn nhát. Dùng từ đứng và quỳ như vậy làm cho câu văn vừa mang tính hình tượng lại vừa mang tính biểu cảm (Ví dụ nếu ta thay thế bằng câu Chết vinh còn hơn sống nhục thì câu này mới chỉ thể hiện được sắc thái biểu cảm. Tính hình tượng của câu tục ngữ sau này rõ ràng mờ nhạt hơn).
6. Phân tích hiệu quả biểu đạt của việc dùng ẩn dụ và so sánh trong câu sau:
Chúng ta luôn nằm trong lòng chiếc nôi xanh của cây cối, đó là cái máy điêu hoà khí hậu của chúng ta.
(Nguyễn Bá Cát – Lã Vĩnh Quyên, Sức khỏe thanh niên)
Gợi ý trả lời: Hai cụm từ chiếc nôi xanh và cái máy điều hoà khí hậu đều nhằm biểu thị chức năng của cây cối, nhưng cách nói này rõ ràng mang tinh hình tượng và biểu cảm hơn. Chiếc nôi và máy điều hoà đều là những vật giúp ích cho con người. Vì thế, người viết dùng chúng để biểu hiện cho chức năng của cây cối sẽ làm cho câu vãn vừa có tính cụ thể, vừa gợi liên tưởng sinh động, lạt vừa iạo được xúc cảm thẩm mĩ cho người đọc.
7. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết:
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cửu nước.
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000)
Hãy phân tích giá trị nghệ thuật của phép điệp, phép đối, của nhịp điệu câu văn.
Gợi ý: Trong đoạn văn trên, Bác đã dùng phép đối và phép điệp (Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm…) để nhấn mạnh ý. Đồng thời, đoạn văn cũng có nhịp điệu dứt khoát và khoẻ khoắn (Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc,…). Sự kết hợp giữa các biện pháp tu từ và nhịp điệu của các câu văn đã tạo cho lời kêu gọi có được một âm hưởng hùng hồn, vang dội. Theo đó, nó tác động mạnh mẽ đến người nghe, người đọc, khiến người nghe, người đọc thực sự cũng cảm thấy giục giã và khát khao được hành động.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
1. Lựa chọn những từ ngữ viết đúng trong các trường hợp sau:
Bàn hoàng/bàng hoàng; chất phát/chất phác; bàn quan/bàng quan; lãng mạn/ lãng mạng; hiu trí/ hưu trí; uống riệu/uống rượu; trau chuốt/ chau chuốt; lồng làn/ nồng nàn; đẹp đẽ/đẹp đẻ; chặc chẻ/ chặt chẽ.
Những từ viết đúng là: bàng hoàng, chất phác, bàng quan, lãng mạn, hưu trí, uống rượu, trau chuốt, nồng nàn, đẹp đẽ, chặt chẽ.
2. Phân tích tính chính xác và tính biểu cảm của từ lớp (thay cho từ hạng) và của từ sẽ (thay cho từ phải) trong bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (trong bản thảo Di chúc, lúc đầu dùng từ hạng, phải, sau đó gạch bỏ):
– Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là [hạng] lớp người “xưa nay hiếm ”…
– Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi [phải] sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi khỏi cảm thấy đột ngột.
(Bút tích "Di chúc ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, 2000)
Gợi ý: Phân tích tính chính xác và tính biểu cảm của:
– Từ lớp: dùng để phân biệt người theo tuổi tác, thế hệ, không có nét nghĩa xấu. Còn từ hạng phân biệt người theo phẩm chất tốt – xấu, mang nét nghĩa xấu (khi dùng với người). Vì thế, trong phạm vi của câu vãn này, từ lớp có nét nghĩa phù hợp hơn.
– Tương tự như vậy: từ phải trong câu sau mang nét nghĩa “bắt buộc”, “cưỡng bức” nặng nề, không phù hợp với sắc thái ý nghĩa “nhẹ nhàng, vinh hạnh” của việc "đi gặp các vị cách mạng đàn anh”, ngược lại từ sẽ có nét nghĩa nhẹ nhàng, phù hợp hơn. Do đó ở câu vãn này Bác đã chủ động thay thế từ phải bằng từ sẽ.
3. Phân tích chỗ đúng, chỗ sai của các câu và của đoạn văn sau:
Trong ca dao Việt Nam những hài về tình yêu nam nữ là những bài nhiều hơn tất cả. Họ yêu gia dinh, yêu cái tổ ấm cùng nhau sinh sống, yêu nơi chôn nhau cắt rốn. Họ yêu người làng, người nước, yêu từ cảnh ruộng đồng đến công việc trong xóm ngoài làng. Tình yêu đó nồng nhiệt, đằm thắm và sâu sắc.
Gợi ý: Đoạn văn tập hợp tất cả các câu vãn tuy đều nói về tình cảm của con người trong ca dao nhưng vẫn mắc những lỗi sau:
– Có thể coi câu đầu của đoạn văn là câu chủ đề của toàn đoạn. Thế nhưng ý nghĩa của câu này (nói về tình yêu nam nữ) và những câu sau (nói về những tình cảm khác) lại không nhất quán với nhau.
– Từ họ trong các câu 2 và câu 3 không rõ thay thế cho cụm từ nào ở câu trước đó.
Có thể chữa lại đoạn văn trên như sau:
Trong ca dao Việt Nam, những bài nói về tình yêu nam nữ là nhiều nhất, nhưng còn có nhiều bài thể hiện những tình cảm khác. Những con người bình dân trong ca dao yêu tha thiết gia dinh, yêu cái tổ ấm cùng nhau sinh sống, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Họ yêu người làng, người nước, yêu từ cảnh ruộng đồng đến công việc trong xóm, ngoài làng. Tình yêu đó nồng nhiệt, dăm thắm và sâu sắc.
4. Câu văn sau được tổ chức mạch lạc theo cấu trúc ngữ pháp của tiếng Việt (chủ ngữ – vị ngữ – bổ ngữ – thành phần phụ chú), đồng thời cũng đậm đà sắc thái biểu cảm và có tính hình tượng cụ thể. Hãy phân tích và làm sáng tỏ điều đó.
Chị Sứ yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị đã oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai dã thắm hồng da dẻ chị.
(Theo Anh Đức, Hòn Đất)
Gợi ý: Câu văn của nhà văn Anh Đức có tính hình tượng cụ thể và tính biểu cảm cao là nhờ: dùng quán ngữ tình thái (biết bao nhiêu), dùng cốc từ ngữ miêu tá âm thanh và hình ảnh gợi liên tưởng sinh động (oa oa cất tiếng khóc dầu tiên), dùng hình ảnh ẩn dụ (quả ngọt trái sai đã thắm hồng da dẻ chi’).
Câu văn hay vì vừa phù hợp với các chuẩn mực ngôn ngữ, lại vừa có tính nghệ thuật cao. Nó là một ví dụ cụ thể và sinh động về việc sử dụng sáng tạo tiếng Việt, tạo hiệu quả cao trong giao tiếp.
5. HS xem lại bài làm văn số 4 của mình, phát hiện các loại lỗi (nếu có) theo phần lí thuyết vừa được học và tự sửa lại.
Mai Thu
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Tuần 35 – Ôn tập phần Làm văn
Tuần 35 – Ôn tập phần Làm văn Hướng dẫn I – PHẦN LÍ THUYẾT [...]
Th1
Tuần 34 – Tổng kết phần Văn học
Tuần 34 – Tổng kết phần Văn học Hướng dẫn 1. Tổng kết khái quát [...]
Th1
Tuần 33 – Viết quảng cáo
Tuần 33 – Viết quảng cáo Hướng dẫn I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN [...]
Th1
Tuần 33 – Luyện tập viết đoạn văn nghị luận
Tuần 33 – Luyện tập viết đoạn văn nghị luận Hướng dẫn I – KIẾN [...]
Th1
Tuần 33 – Ôn tập phần tiếng Việt
Tuần 33 – Ôn tập phần tiếng Việt Hướng dẫn 1. Nhắc lại những kiến [...]
Th1
Tuần 32 – Viết bài làm văn số 7: Văn nghị luận (Bài làm ở nhà)
Tuần 32 – Viết bài làm văn số 7: Văn nghị luận (Bài làm ở [...]
Th1