Tuần 17 – Đọc thêm: Thơ hai-cư của Ba-sô

Tuần 17 – Đọc thêm: Thơ hai-cư của Ba-sô

Hướng dẫn

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Ma-su-ô Ba-sô (1644 – 1694) sinh trưởng trong một gia đình võ sĩ đạo Sa-mu-rai ở U-ê-nô (nay là tinh Mi-ê). Khoảng năm 28 tuổi, ông chuyển đến Ê-đô (nay là Tô-ki-ô), Nhật Bản. Ông là bậc thầy của thơ hai-cư Nhật Bản. Thơ ông mang tính chất đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lắng, u buồn, nhưng không chán chường, bi luỵ hay oán đời.

2. Thơ hại-cư là thể thơ vào loại ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết (một số bài nhiều hơn một chút), ngắt nhịp thành 3 đoạn, theo thứ tự thường là: 5 âm – 7 âm – 5 âm). Mỗi bài thơ hai-cư đều có một tứ thơ nhất định và thường chỉ ghi lại một phong cách với vài sự vật cụ thể, trong một thời điểm nhất định, để từ đó khơi gợi lên một cảm xúc, một suy tư nào đó.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài cảm về Kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm trong:

a) Bài 1:

Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.

Ba-sô sinh trưởng ở Mi-ê. Ông lên Ê-đô sống và ở đó được mười năm mới về thăm lại quê hương, ở Ê-đô, Ba-sô rất nhớ quê, nhưng về quê rồi Ba-sô lại thấy nhớ Ê-đô, thấy Ê-đô thân thiết như quê hương mình. Bài thơ ngắn mà thể hiện cái tình gắn bó sâu nặng mảnh đất nơi mình ở. Có lẽ sau này khi viết hai câu thơ nổi tiếng:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!

nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã được gợi ý từ ý thơ của Ba-sô chăng?

b) Bài 2:

Trước khi Ê-đô trở thành Kinh đô của Nhật Bản (Tô-ki-ô ngày nay), thì Kinh đô của Nhật là thành phố Ki-ô-tô. Ba-sô sống ở Ki-ô-tô thời trẻ (từ năm 22 tuổi đến năm 28 tuổi). Sau đó, ông chuyển lên sống ở Ê-đô như trên đã nói. Cuối đời, ông có lần trở lại Ki-ô-tô, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ này:

Chim đỗ quyên hót

ở Kinh đô

mà nhớ Kinh đô.

Trong văn học Trung Quốc, chim đỗ quyên gắn với điển tích vua Thục bị mất nước. Tuy nhiên ở đây các nhà nho cố ý dịch ra thành chim cuốc vì nó cũng xuất hiện vào đầu hè, thường kêu rất buồn và còn đồng âm với chữ quốc (nước).

Ở Nhật Bản, chim đỗ quyên là chim hô-tô-tô-ghi-su thường kêu vào đầu hè, nó không hót khi trời đẹp mà hót khi trời xẩm tối, vào đêm trăng, sau khi trời mưa,… tiếng kêu rất tha thiết. Vì thế nó thường được dùng để chỉ sự thương tiếc thời gian, đặc biệt là thể hiện nỗi buồn và sự vô thường.

Xem thêm:  Tuần 8 - Viết bài làm văn số 2

Bài thơ của Ba-sô độc đáo chính là ở chỗ phát hiện ra sự trùng hợp ngẫu nhiên của hai từ "Kinh đô". Ba-sô trở về Kinh đô sau 20 năm, nghe tiếng đỗ quyên mà nhớ Kinh đô năm nào. Đó là cả một nỗi niềm hoài cổ. Sự tiếc nhớ ấy không chỉ là sự hoài cổ về quá khứ xa xưa mà còn là sự nhớ tiếc bao kỉ niệm, nhớ tiếc về thời trai trẻ. Thời gian trôi đi, đời người không vĩnh viễn – điều đó thường gợi nhiều nỗi suy tư trong lòng của con người, nhất là những người xa xứ.

2. Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi thể hiện trong các bài 3 và 4.

a) Bài 3:

Lệ trào nóng hổi

tan trên tay tóc mẹ

làn sương thu.

Năm 40 tuổi, Ba-sô làm một cuộc du hành đến Kan-sai gần quê nhà. về đến nhà thì hay tin mẹ mất. Người ta đưa lại cho ông di vật là một mớ tóc bạc. Ông đau đớn mà viết nên bài thơ này.

Bài thơ thấm đượm xót xa tình mẫu tử, đặc biệt đó là nỗi lòng của đứa con xa xứ, đã không chăm sóc được mẹ già lại không được nhìn thấy mẹ lần cuối trước lúc mẹ mãi mãi ra đi. Nỗi xót xa đau đớn của nhà thơ thể hiện ở giọt lệ nóng hổi rơi xuống bàn tay đang cầm mớ tóc của người mẹ đã khuất. Quý ngữ (từ chỉ mùa) của bài thơ là sương thu. Sương thu ở trong câu thơ có nhiều nghĩa. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương của đứa con trai về muộn, hay nó gợi về hình ảnh mái tóc của mẹ bạc như sương, hay nó chỉ cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,… Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo và đa nghĩa.

b) Bài 4:

Bài thơ này ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Trong du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba-sô có kể chuyện một lần đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé bị bỏ rơi trong rừng:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?

gió mùa thu tái tê.

Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng. Thậm chí còn đang tâm giết đứa trẻ nữa.

Những câu chuyện như thế không biết tự bao giờ đã trở thành một ấn tượng sâu đậm hằn in vào tâm khảm nhà thơ. Vì thế, nghe tiếng vượn hú não nề trong rừng vắng mà Ba-sô lại liên tưởng đến tiếng người. Dầu vẫn biết đó là một tưởng tượng của nhà thơ thế nhưng trong gió mùa thu, ta như đang nghe thấy tiếng trẻ con khóc thật. Tiếng khóc của trẻ con khiến cho gió mùa thu thêm tê tái hay tiếng gió mùa thu kia đang than khóc cho nỗi đau của con người? Sự đa nghĩa, tiềm tàng trong thơ hai-cư là thế. Nội dung ý nghĩa của mỗi bài thơ luôn còn là một khoáng mở dành cho kinh nghiệm sống và sự rung động riêng của mỗi người phát huy.

3. Vẻ đẹp tâm hồn của Ba-sô trong bài 5:

Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.

Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khí đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

Bài thơ là một liên tưởng rất giàu tính nhân vãn. Hình ảnh chú khí chỉ là một ẩn dụ, nó gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Ban xưa, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thê’ hiện tình thương yêu sâu sắc, thể hiện lòng nhân ái bao la của Ba-sô đối với những kiếp người nhỏ bé trong xã hội.

4. Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ (thể hiên trong các bài 6 và 7):

a) Bài 6:

Từ bốn phương trời xa.

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.

Hồ Bi-oa (hồ Tì Bà) nằm ở tính Si-ga, gần quê của Ba-sô. Quanh hồ Bi-oa có trồng rất nhiều hoa anh đào. Mỗi khi gió thổi, cánh hoa anh đào lại rụng lả tả như mây. Cánh hoa hồng nhạt, mong manh rụng xuống mặt hồ làm cho mặt hồ gợn sóng.

Thơ xưa thường có nhiều bài nói đến sự tương giao của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Bài thơ này là một bài thơ như thế. Cảnh tượng trên hồ Bi-oa chính là thể hiện sự tương giao của các vật trong vũ trụ (giữa trời, hoa và nước trên hồ). Triết lí về sự tương giao là triết lí của Thiền Tông (một dòng thiền của Phật giáo). Nó sâu xa nhưng lại được thể hiện bằng những hình tượng giản dị, nhẹ nhàng. Đó chính là một cảm thức thẩm mĩ trong thơ của Ba-sô.

b) Bài 7:

Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.

Bài thơ ra đời trong một lần Ba-sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Nó quả là một liên tưởng kì lạ, thể hiện sự tương giao cảm giác, âm thanh và vật thể, là sản phẩm mang đậm cảm giác u huyền của tôn giáo Thiền Tông.

Xem thêm:  Tuần 7 - Miêu tả và biểu cảm trong bài văn tự sự

Tiếng ve là âm thanh, đá là vật thể. Sự giao hoà quả là không thể có. Thế nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại (im ắng cả trong hồn), người ta như có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá. Liên hệ đó độc đáo, kì lạ mà không hề khoa trương.

5. Khát vọng sống, khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8:

Nằm bệnh giữa cuộc lãng du

mộng hồn còn phiêu bạt

những cánh đồng hoang vu.

Bài thơ này Ba-sô viết ở ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, Ba-sô đã thấy sức lực của mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng, trước cái chết, Ba-sô không hề bi lụy. Cả cuộc đời mình, Ba-sô đã lang thang, phiêu lãng khắp nơi nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là, đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-sô đang tiếp tục lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu, bất tận.

6. – Quý ngữ trong các bài thơ:

+ Bài 6: Hoa đào (chi mùa xuân).

+ Bài 7: Tiếng ve (chỉ mùa hè).

+ Bài 8: Cánh đồng hoang vu (chí mùa đông).

– Cảm thức thẩm mĩ trong các bài thơ trên:

Thiên nhiên trong thơ hai-cư của Ba-sô thường là những cảnh rất bình dị, nhỏ bé, tầm thường: cánh hoa đào lả tả, tiếng ve, cánh đồng hoang vu,… thế nhưng qua tâm hồn nhạy cảm và cái nhìn hết sức tinh tế của nhà thơ, nó vẫn có những nét thẩm mĩ rất riêng, rất đẹp và rất thanh. Ba bài thơ 6, 7 và 8 của Ba-sô đều miêu tả những cảnh rất đơn sơ và đặc biệt rất vắng lặng (cánh hoa đào mỏng manh rơi lại có thể làm cho mặt hồ gọn sóng); u huyền (âm thanh của tiếng ve ngâm tưởng như thấm sâu vào đá, một linh hồn sắp lìa khỏi thế gian mà vẫn muốn tiếp tục lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu, bất tận), từ đó khơi gợi trí tưởng tượng phong phú cho người đọc, đồng thời hướng người đọc đến những triết lí nhân sinh giản đơn mà sâu sắc.

Mai Thu