Tuần 1 – Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX
Hướng dẫn
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra trên đất nước ta một thời kì lịch sử mới: thời kì độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự kiện ấy, một nền văn học mới đã ra đời.
Nền văn học mới Việt Nam đã phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn 1945 – 1975 và giai đoạn từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX.
II. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
1. Những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hoá có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra trên đất nước ta một kỉ nguyên mới. Từ đây, một nền văn học mới gắn liền với lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội đã ra đời.
Từ năm 1945 đến năm 1975 trên đất nước ta diễn ra nhiều biến cố, sự kiện lớn lao, đặc biệt, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Nền kinh tế nghèo nàn và chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hoá với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn trong một số nước. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt đó, văn học vẫn phát triển và đạt được những thành tựu to lớn.
2. Các chặng đường phát triển của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 và nhũng thành tựu chủ yếu của mỗi chặng.
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 phát triển qua ba chặng:
a) Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954
Những ngày đầu đất nước mới giành được độc lập, văn học tập trung ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng, kêu gọi tinh thần đoàn kết, cổ vũ phong trào Nam tiến, biểu dương nhũng con người hi sinh vì nước.
Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn học chặng đường này bám sát đời sống cách mạng và kháng chiến, hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của nhân dân lao động, thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
– Nhanh nhạy và kịp thời, truyện ngắn và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm tiêu biểu trong những năm đầu kháng chiến là kí sự Một lần tới Thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, Đôi mắt, nhật kí Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương,… Từ năm 1950 đã bắt đầu xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm được giải thưởng truyện kí của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1951 – 1952, 1953 – 1954: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
– Thơ trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp tập trung viết về tình yêu quê hương đất nước và lòng căm thù giặc, ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Hình ảnh quê hương và những con người kháng chiến (anh vệ quốc quân, bà mẹ chiến sĩ, chị phụ nữ nồng thôn, em bé liên lạc,…) được thể hiện chân thực. Một số nhà thơ có ý thức đổi mới thơ ca với những xu hướng khác nhau. Xu hướng đại chúng hoá, hướng về dân tộc, khai thác những thể thơ truyền thống là khuynh hướng chủ đạo của cả nền thơ trong đó Tố Hữu là một đại diện tiêu biểu. Bên cạnh đó, xu hướng tìm tòi, cách tân gắn với tên tuổi của Nguyễn Đình Thi cũng xuất hiện với kiểu thơ hướng nội, tự do, không vần hoặc ít vần. Quang Dũng tiêu biểu cho hướng khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng. Tiêu biểu cho thơ ca chặng đường này là các tác phẩm Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Lên núi của Hồ Chí Minh, Đèo cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Việt Bắc của Tố Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, Đồng chí của Chính Hữu, Dọn về làng của Nông Quốc Chấn,…
– Kịch tập trung phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến. Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hoà của Học Phi là những tác phẩm được chú ý trong chặng đường này.
– Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam của Trường Chinh, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc có ý nghĩa định hướng cho văn học nghệ thuật. Các tác phẩm Nhận đường và Mấy vấn đề nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi; Nói chuyên thơ ca kháng chiến và Quyền sống con người trong "Truyện Kiều" của Hoài Thanh; Giảng văn "Chinh phụ ngâm” của Đặng Thai Mai;… tiêu biểu cho thành tựu về lí luận, nghiên cứu văn học ở chặng đường này.
b) Chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964
Trong chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964, văn học tập trung ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện hình ảnh người lao động và tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, ý chí thống nhất nước nhà.
– Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống. Nhiều tác phẩm viết về sự đổi đời của con người trong môi trường xã hội mới (Đibước nữa của Nguyễn Thế Phương, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên,…). Một số tác phẩm khai thác đề tài về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, tinh thần bất khuất, phản ánh những gian khổ, hi sinh, những tổn thất và số phận của con người trong chiến tranh (tiêu biểu là các tác phẩm Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,…). Bên cạnh đó, không thể không nói tời những tác phẩm viết về hiện thực đời sống trước Cách mạng với cái nhìn, khả năng phân tích và sức khái quát mới (Vợ nhặt của Kim Lân, Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Phất của Bùi Huy Phồn, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng,…). Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã thu hút sự quan tâm của nhiều cây bút. Qua các chuyến đi thực tế, các nhà văn có điều kiện thâm nhập và phản ánh cuộc sống mới của nhân dân, đất nước. Sông Đà của Nguyễn Tuân, Bốnnăm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,… là kết quả của những chuyến đi này, bước đầu khẳng định thành tựu của văn xuôi viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
– Thơ ca kết hợp hài hoà yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn cách mạng, đã có một mùa gặt bội thu với các tập thơ Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời của Huy Cận, Gửi miền Bắc, Tiếng sóng của Tế Hanh, Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi, Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông,… Nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi nhớ quê hương và khát vọng giải phóng miền Nam là nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ đặc sắc của Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. Từ miền Nam, các nhà thơ Thanh Hải, Giang Nam đã sớm có những bài thơ cảm động về miền Nam như Mồ anh hoa nở và Quê hương.
– Kịch ở chặng đường này cũng có một số tác phẩm được dư luận chú ý như Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Quẫn của Lộng Chương, Chị Nhàn và Nổi gió của Đào Hồng Cẩm,…
c) Chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975
Toàn bộ nền văn học tập trung viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
– Văn xuôi chặng đường này đã khắc hoạ thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, bất khuất. Nhiều tác phẩm truyện kí viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng như Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Giấc mơ ông lão vườn chim, Hòn Đất của Anh Đức, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Mẫn và tôi của Phan Tứ,… Ở miền Bắc, truyện kí cũng phát triển mạnh. Tiêu biểu nhất là những tập kí của Nguyễn Tuân, truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường, Đỗ Chu; tiểu thuyết của Hữu Mai, Nguyễn Minh Châu,…
– Thơ ca những năm chống Mĩ cứu nước đạt được những thành tựu xuất sắc, đánh dấu một bước tiến mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ở chặng đường này, thơ ca tập trung thể hiện cuộc ra quân vĩ đại của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam, thể hiện sứ mệnh lịch sử, tầm vóc và ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Việt Nam chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975 thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực đồng thời bổ sung, tăng cường chất suy tưởng, chính luận. Các tập thơ Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường – Chim báo bão và Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt của Xuân Diệu, Dòng sông trong xanh của Nguyễn Đình Thi, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, Cửa mở của Việt Phương, Vầng trăng quầng lửa và Thơ một chặng đường của Phạm Tiến Duật, Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, Hương cây – Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt, Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa,… gây được tiếng vang lớn, thể hiện tập trung nhất thành tựu của thơ ca Việt Nam chặng đường này. Đặc biệt sự xuất hiện của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã góp phần tạo nên một sức sống mới, một diện mạo mới cho cả nền thơ. Thơ của các nhà thơ trẻ chặng đường này giàu yếu tố hiện thực, phản ánh được sự ác liệt, những hi sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt là đã dựng lên được bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ. Với những đóng góp của mình, thế hệ các nhà thơ trẻ đã đem đến cho thơ Việt Nam chặng đường này một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, sôi nổi mà vẫn thấm đượm chất triết luận, suy tư.
– Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Tiêu biểu là các tác phẩm Quê hương Việt Nam, Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,…
– Nhiều công trình nghiên cứu lí luận phê bình xuất hiện mà những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ,… là những tác phẩm có giá trị hơn cả
3. Những đặc điểm cơ bản của vãn học việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.
a) Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là nền văn chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Văn học giai đoạn này tồn tại và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, điều kiện giao lưu văn hoá với nước ngoài hạn chế, sự tiếp xúc với văn hoá, văn học thế giới chủ yếu thông qua vùng ảnh hưởng của phe xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ấy, nền văn học mới phải đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước, văn nghệ phải thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Không khí cách mạng và không khí kháng chiến đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần công dân của người cầm bút. Văn học trước hết phải là vũ khí chiến đấu.
Đặc điểm này đã được thể hiện xuyên suốt, liền mạch qua các chặng đường cách mạng của dân tộc từ năm 1945 đến năm 1975. Văn học phục vụ cách mạng nên quá trình vận động, phát triển hoàn toàn ăn nhịp với từng bước đi của cách mạng, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 tập trung vào đề tài Tổ quốc: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Toàn bộ nền văn học từ thơ ca, truyện, kí đến nghệ thuật sân khấu đều tập trung khai thác mâu thuẫn, xung đột giữa ta và địch; đặt lợi ích của Tổ quốc, của toàn dân tộc lên trên hết.
b) Nền văn học hướng về đại chúng. Đại chúng vừa là đối tượng thể hiện, vừa là công chúng của văn học, đồng thời cũng là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho văn học.
– Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động, đem lại một cách hiểu mới về quần chúng lao động, về phẩm chất tinh thần và sức mạnh của họ trong cuộc kháng chiến, phê phán tư tưởng coi thường quần chúng. Văn học trực tiếp ca ngợi quần chúng bằng cách xây dựng "hình tượng đám đông quần chúng đầy khí thế và sức mạnh hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp, nhân dân, dân tộc. Một chủ đề phổ biến khác của văn học giai đoạn này là khẳng định sự đổi đời của quần chúng nhờ cách mạng.
– Hướng về đại chúng, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 phần lớn là những tác phẩm ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng. Văn học cũng thường tìm đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân ở ngay trong kho tàng văn hoá dân gian và văn học truyền thống. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, trong sáng, dễ hiểu.
c) Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của văn học phải là những con người gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng, đó là nhân vật trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại, chứ không phải đại diện cho cá nhân mình. Người cầm bút nhân danh cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng với những chiến công chói lọi. Con người giai đoạn lịch sử này tuy đứng giữa thực tại đầy gian khổ, mất mát, đau thương nhưng tâm hồn luôn luôn hướng về lí tưởng, về tương lai.
Ra đời và phát triển trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ vô cùng ác liệt và kéo dài, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 trước hết là nền vãn học của chủ nghĩa yêu nước. Chính những đặc điểm lịch sử – xã hội của thời đại đã tạo nên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn này.
4. Với chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do, Tổ quốc được thống nhất. Chiến tranh kết thúc, con người trở về với cuộc sống bình thường. Đời sống đổi khác, tư tưởng, tâm lí, nhu cầu của con người cũng không còn như trước nữa. Nhưng trong khoảng mười năm đầu sau chiến tranh, văn học vẫn tiếp tục vận động theo quán tính của nó. Tình hình đó đã tạo nên sự "lệch pha" giữa người cầm bút và công chúng văn học. Điều này tạo nên hiện tượng độc giả thờ ơ với tác phẩm của các cây bút trong nước và tìm đọc một số cuốn tiểu, thuyết dịch của nước ngoài.
Đất nước cần được đổi mới toàn diện và sâu sắc. Văn học cũng vậy. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI khẳng định đổi mới "là nhu cầu bức thiết”, là "vấn đề có ý nghĩa sống còn". Đất nước bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn, của công chúng cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học.
5. Những thành tựu ban đầu của văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX.
Công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975 đã diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện, từ tư tưởng thẩm mĩ đến hệ thống thể loại, thi pháp và phong cách nghệ thuật. Những thành tựu ban đầu đã được ghi nhận ở văn xuôi, thơ, kịch, lí luận, phê bình văn học.
– Về văn xuôi: Thời gian đầu, phóng sự, tiểu thuyết – phóng sự phát triển mạnh do nhu cầu chống tiêu cực. Về sau, nghệ thuật kết tinh ở truyện ngắn và tiểu thuyết. Một số cây bút đã bộc lộ ý thức đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận đời sống và con người. Tiêu biểu trong số này là các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp,…
– Về thơ ca: Ngay sau đại thắng mùa xuân 1975, nổi lên một phong trào viết trường ca ở các nhà thơ xuất thân quân đội, nhưng một thời gian sau lại lắng đi. Trong thế hệ các nhà thơ trước Cách mạng, Chế Lan Viên là người gây được tiếng vang. Các cây bút thế hệ chống Mĩ vẫn tiếp tục viết đều. Lớp các nhà thơ trưởng thành sau năm 1975 xuất hiện rất đông đảo. Ba thế hệ cùng sáng tác. Những tìm tòi, thể nghiệm táo bạo trong thơ không thiếu nhưng thành tựu chưa được bao nhiêu. Dù sao, thơ sau năm 1975 cũng đã tạo ra một diện mạo mới tuy còn khá ngổn ngang, bề bộn.
– Kịch nói từ sau năm 1975 phát triển khá mạnh mẽ. Một số tác phẩm gây được tiếng vang là Hồn Trương Ba, da hàng thịt và Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân Trình,…
– Về lí luận, phê bình văn học: Những biểu hiện đổi mới đến chậm hơn. Một số cuộc tranh luận khá sôi nổi xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa văn học với chính trị, văn học với hiện thực, về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, xung quanh việc đánh giá lại văn học giai đoạn 1930 – 1945, văn học từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 và một số tác phấm có tư tưởng và cách viết mới. Tiêu chí đánh giá cũng đã có những chuyển dịch nhất định: chú ý nhiều hơn đến giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản, chức năng thẩm mĩ của văn học. Vai trò chủ thể sáng tác được coi trọng hơn cùng với tính tích cực trong tiếp nhận văn học của người đọc. Một số phương pháp khoa học được vận dựng với những khái niệm công cụ mới. Nhiều trường phái lí luận phương Tây đã được dịch và giới thiệu. Lối phê bình xã hội học dung tục tuy chưa mất hẳn nhưng không còn được coi trọng.
III. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Về nhận định của Nguyễn Đình Thi trong bài Nhận đường: "Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta".
– Giải thích nhận định của Nguyễn Đình Thi: Mối quan hệ gắn bó giữa kháng chiến và văn nghệ.
+ Kháng chiến là nguồn cung cấp đề tài, chất liệu hiện thực, lực lượng sáng tác,… cho văn nghệ.
+ Văn nghệ cổ vũ cho kháng chiến, phục vụ kháng chiến.
– Điều đó được thể hiện trong văn học như thế nào (những tác phẩm viết về kháng chiến như Bên kia sông Đuống, Dọn về làng, Việt Bắc, Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình,…).
– Ý nghĩa quan điểm của tác giả: hướng nghệ sĩ gắn bó với cuộc kháng chiến của dân tộc, phục vụ cuộc đấu tranh của nhân dân.
Mai Thu
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Tuần 18 – Ôn tập phần Văn học
Tuần 18 – Ôn tập phần Văn học Hướng dẫn 1. Quá trình phát triển [...]
Th1
Tuần 17 – Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận
Tuần 17 – Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận Hướng dẫn [...]
Th1
Tuần 17 – Đọc thêm: Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (trích Những năm tháng không thể nào quên)
Tuần 17 – Đọc thêm: Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (trích Những [...]
Th1
Tuần 17 – Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích)
Tuần 17 – Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích) Hướng dẫn I. KIẾN [...]
Th1
Tuần 16 – Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận
Tuần 16 – Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận Hướng dẫn I. KIẾN [...]
Th1
Tuần 16 – Người lái đò Sông Đà (trích)
Tuần 16 – Người lái đò Sông Đà (trích) Hướng dẫn I. KIẾN THỨC CƠ [...]
Th1