Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

Hướng dẫn

1. PHÁT HIỆN VÀ PHÂN TÍCH CÁC LỜI LẬP LUẬN

a) Luận cứ nêu không đầy đủ, chỉ tập trung vào tục ngữ, ca dao trong khi luận điểm chính được nêu lên ở đầu đoạn vãn là "Giá trị quan trọng nhất của văn học dân gian là giá trị nhận thức", cần lần lượt đề cập đến truyện cổ, ca dao rồi đến tục ngữ… Luận cứ chỉ đề cập đến một khía cạnh hẹp: hiểu biết, nhận thức về tự nhiên (nói rõ hơn là thời tiết).

Nguyên nhân của lỗi này là người viết không nắm được các khía cạnh cụ thể của vâ’n đề nghị luận, không hiểu quan hệ lô-gic của các luận cứ và thiếu các dần chứng cụ thể để làm rõ luận điểm.

Từ phát hiện và phân tích được các lỗi lập luận như trên, học sinh dễ dàng chữa lại để lập luận chặt chẽ, lô-gic và có sức thuyết phục.

b) Ở đoạn văn này, luận điểm nêu không rõ ràng: nội dung câu 1 và câu 2 nhằm mục đích nêu luận điểm nhưng luận điểm chủ yếu được nêu trong câu 2 mà lại không xác đáng vì không nêu được bản chất của vấn đề, không phải là một nội dung tương đương với luận điểm được nêu như một tiền đề ở câu 1. Luận cứ lại không chặt chẽ và thiếu lô-gic: "Chính cái sự thèm người ẩy… Đó là biểu hiện rõ nét nhất của tinh thần lạc quan".

Đây là lỗi do không nắm vững vấn đề trình bày, không hiểu mối liên hệ giữa các chi tiết trong tác phẩm nên việc khái quát luận điểm không phù hợp với đối tượng và không triển khai được các luận cứ xác đáng, thuyết phục.

Hiểu như vậy, học sinh dễ dàng chữa lại đoạn vãn để lập luận chặt chẽ lô-gic và có sức thuyết phục.

c) Luận điểm nêu chưa rõ, chưa phù hợp với bản chất của đối tượng nghị luận (nói "hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống" là quá chung chung, chưa làm nổi bật được vấn đề: ranh giới giữa sự sống và cái chết vào những ngày tháng khủng khiếp của nạn đói nãm 1945 và khát vọng được làm người, được yêu thương trong Vợ nhặt. Luận cứ quá sơ lược, chưa đầy đủ, chưa trình bày được những khía cạnh chủ yếu liên quan đến chi tiết "Tràng nhặt được vợ" thì đã vội vàng đi đến kết luận chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Xem thêm:  Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc

Đây là lỗi do người viết không hiểu thấu đáo vấn đề đang nghị luận nên cả luận điểm, luận chứng đều chưa thuyết phục được.

d) Không nêu được luận điểm cần thiết liên quan trực tiếp đến vấn đề: khát vọng tình yêu của nhân vật trữ tình và hình tượng con sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Luận cứ nêu ra làm tiền đề để dẫn nhập cho lập luận cũng quá lan man, xa rời vấn đề: "Nếu ai đã từng ra biển… Sóng từ đâu đến và sóng đi đâu, về đâu"?

Lỗi là do người viết không nắm được rõ phạm vi luận điểm cần trình bày, không tìm được những luận cứ cần thiết liên quan trực tiếp đến luận điểm mà mình đang triển khai.

e) Luận cứ thiếu lô-gic: "Đoạn trícli nào trong sách giáo khoa ông cũng nâng cao phẩm giá con người". Quan hệ giữa các luận cứ lại không chặt chẽ, không phù hợp: "Kiều thương cha bị đòn mà phải bán mình. Điều này khiến chúng ta thấy rõ hơn cuộc sống hồng nhan của Kiều. Ông thượng xót Kiều vì Kiều chịu bao nhiêu tai hoạ. Ta càng hiểu thế nào là hồng nhan bạc mệnh". Không có các dẫn chứng đầy đủ để làm rõ cho luận điểm. Thêm vào đó, luận điểm nêu cũng chưa thật xác đáng, cách dùng từ lòng thương người quá chung chung, chưa phản ánh được bản chất của vấn đề cần nghị luận: Tư tưởng nhân đạo trong Truyện Kiều, tình yêu thương, cảm thông sâu sắc với bi kịch cuộc đời người phụ nữ của Nguyễn Du.

g) Luận cứ được nêu làm tiền đề dẫn nhập cho luận điểm chính quá rườm rà, lan man, không làm nổi bật được vân đề: "Cây xà nu là một loài cây họ thông, mọc rất nhiều trong những khu rừng ở Tây Nguyên. Xà nu là một loài cây gỗ quý và đặc biệt có sức sống rất mãnh liệt".

Lỗi là do người viết chưa ý thức rõ phạm vi vấn đề cần nghị luận, vì vậy quan hệ giữa các luận cứ, luận điểm lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng trình bày lan man, xa rời vấn đề chính..

h) Lỗi chủ yếu của lập luận này là luận điểm không rõ ràng. Nói cụ thể là quan hệ giữa tiền đề chính vì ra đời từ rất sớm và kết luận bộ phận văn học dân gian… ở đây là không lô-gic. Đã vậy, luận điểm lại chồng chéo Văn học dân gian còn là kho tàng về nghệ thuật. Với những giá trị ấy, văn học dân gian là bộ phận của văn học Việt Nam và là nền tảng của văn học viết. Nhìn chung là luận cứ thiếu hệ thông, thiếu sót, không toàn diện.

Xem thêm:  Nghị luận về một hiện tượng đời sống

2. HƯỚNG SỬA CHỮA CÁC LỖI LẬP LUẬN

a) Có thể bổ sung thêm những luận cứ về giá trị nhận thức của văn học dân gian trong truyện cổ, ca dao, tục ngữ và sắp xếp theo hệ thống nhất định: xã hội, con người, lao động sản xuất, tự nhiên cho hợp lí.

b) Cần nêu rõ luận điểm: Người thanh niên trong "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công việc mà còn tha thiết yêu đời, yêu người. Sửa lại các luận cứ: Anh còn rất thrfm người. Anh thèm người tới mức đã tự tay lăn một cây to chặn ngang giữa dường để được gặp mặt và trò chuyện với đoàn khách lên Sa Pa dù chỉ là một vài phút; Một mình làm công việc thầm Lặng giữa mây gió, sương mù trên sườn đèo heo hút, anh luôn khao khát được gặp gỡ chia sẻ với mọi người…

c) Cần nêu lại luận điểm: Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân dã hiểu hiện được niềm khao khát sống, khao khát được yêu thương, chia sẻ ngay trong cảnh khốn cùng nhất. Con người phải đối mặt với cái đói và cái chết… vì đói. Bổ sung một số luận cứ tiêu biểu ngắn gọn liên quan đến tình huống nhặt được vợ của Tràng, thái độ và tâm trạng của bà cụ Tứ. Sau đó mới nêu kết luận: Đó chính là khía cạnh nổi bật nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

d) Có thể bỏ các chính luận: "Nếu ai đã từng ra biển thì. hẳn phải cảm nhận dược vẻ dẹp kì diệu và sức mạnh của những con sóng miên man vỗ bờ. Những con sóng luôn biến đổi khôn lường, lúc thì êm ả, dịu dàng, lúc lại sôi sục, dữ dội. Và những con sóng ấy dường như không biết mệt. Sóng từ dâu đến và sóng đi đâu, về đâu". Thay vào đó bằng các luận cứ: "Thế giới tâm trạng của người đang yêu, nhất là của một trái tim "tự hát" như Xuân Quỳnh là thế giới đầy biến động. Chính vì thế, Xuân Quỳnh dã nói lên nhịp của trái tim đang yêu bằng nhịp của những con sóng cồn cào đầy bí ẩn: Dữ dội và dịu êm. Ôn ào và lặng lẽ".

e) Cần nêu lại luận điểm: Tình yêu thương con người của Nguyễn Du được gửi gắm vào mỗi trang Kiều, mỗi lời thơ "như khóc như than" cho thân phận con người "tài hoa bạc mệnh".

Sửa và bổ sung các luận cứ cụ thể, sắp xếp theo trình tự lô-gic nhất định: trân trọng phẩm giá con người, cảm thông với nỗi đau của phận hồng nhan cho hợp lí.

Xem thêm:  Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng)

g) Có thể bỏ các luận cứ: Cây xà nu là một loài cây họ thông, mọc rất nhiều trong những khu rừng ở Tây Nguyên. Xà nu là một loại cây gỗ quý và dặc biệt có sức sống rất mãnh liệt. Nêu rõ luận điểm: Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã chọn cây xà nu: loài cây quen thuộc của núi rừng Tây Nguyên làm một biểu tượng nghệ thuật để khắc họa phẩm chất của người dân Xô Man.

h) Cần nêu lại luận điểm:

– "Văn học dân gian là dòng văn học ra đời từ trước khi có văn học viết, có giá trị nội dung và nghệ thuật to lớn…". Bổ sung một hệ thống luận cứ phù hợp, đầy đủ và toàn diện để dẫn đến kết luận: "Chính vì thế, văn học dân gian là nền tảng của văn học viết".

Cũng có thể nêu lại luận điểm: "Văn học dân gian luôn hướng con người tới cái "chân, thiện, mĩ".

Hoặc: "Văn học dân gian chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp, là nguồn mạch nuôi dưỡng tâm hồn con người". Bổ sung các luận cứ nhằm triển khai luận điểm này thành một đoạn văn: thế giới cái thiện, mơ ước về hạnh phúc trong truyện cổ, lời tâm tình ngọt ngào, thắm thiết trong ca dao, bài học đạo lí nghĩa nhân trong ca dao, tục ngữ. Bỏ bớt các luận điếm chồng chéo: Văn học dân gian còn là kho tàng về nghệ thuật:

Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.

Với phép so sánh đặc sắc, câu ca dao là lời hát về thân phận éo le, khổ cực của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Với những giá trị ấy, văn học dân gian là bộ phận của văn học Việt Nam, là nền tảng của văn học viết.

Mai Thu