Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt”của Kim Lân

Đề bài:Em hãy phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt”của Kim Lân

Một tác phẩm có nhiều thước đo giá trị, trong đó có giá trị nhân đạo là thước đo chủ yếu và cơ bản nhất. Giá trị nhân đạo góp phần quyết định sức sống của tác phẩm đồng thời qua đó, thể hiện thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Vợ nhặt ( Kim Lân), đều toát lên giá trị nhân đạo sâu sắc, khác với văn xuôi thời kỳ trước 1945, đây là giá trị nhân đạo mới.

Mácxim Gorki đã nói “ Văn tức là người”. Đối tượng phản ánh trung tâm cảu văn học là con người. Nhà văn chân chính đi tìm bề sâu và mọi tâm trạng tinh vi, phức tạp nhất của tâm hồn con người để hiểu và yêu con người. Chính vì thế giá trị nhân đạo luôn là vấn đề cấp thiết trong văn chương mọi thời đại. Số phận con người, những khát vọng của con người không bao giờ lại cũ cả.

Giá trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như những khát vọng của con người: là sự ngợi ca khả năng cải tạo hoàn cảnh sống, tin tưởng rằng sự sống là bất diệt. Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc.

Cả hai truyện ngắn mà ta sắp đề cập tới đây đều kế thừa giá trị truyền thống ấy. Tuy vậy, bước sang thời đại mới – thời đại của cách mạng, hơi hướng nhân đạo có phần được phát huy thêm. Các nhà văn không còn bị lâm vào tình trạng bế tắc như trước.

Xem thêm:  Trách nhiệm của người làm trai qua Chí làm trai-Nguyễn Công Trứ

Đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta tiếp xúc với một màn đêm của cuộc sống ngụ cư ven đô. Cái đó, cái chết luôn là một ám ảnh, nỗi sợ hãi bao phủ lên cuộc sống con người. Kiếp người đó “ vật vờ” “ xám xịt” giống như bóng ma tàn lạnh.

Không gian của truyện tối và kinh hoàng gieo vào lòng người đọc cảm giác đói Ất Dậu ( 1945) kia như đang trở về trước mắt. Vạn vật điêu tàn, đen xám. Tuy thế tác phẩm đã không chỉ đi theo chiều hướng tả chân phê phán hiện thực. Nhà văn không bị lạc điệu, rơi vào sự cợt nhạo trào lộng khi miêu tả chân dung cũng như hành động của cô gái mà Tràng gặp ngoài chợ: đáo để, trơ trẽn, ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc và cuối cùng thì cắp cái nón rách theo Tràng về nhà.

Hoàn toàn không phải vậy mà gần như ngược lại, Kim Lân xây dựng nhân vật như thế và ông xót xa lắm chứ. Bởi vì cô gái ấy không là hiện thân của cái xấu, cái ác mà là nạn nhân của cái đói nghèo. Đằng sau những lời nói chanh chua, chỏng lỏn kia, cô gái đáng thương hơn chứ không đề đáng ghét. Cái tâm của nhà văn thể hiện rất sâu đậm ở nét này. Ông không thể nào làm khác bởi cái đói nghiệt ngã kia buộc nhân vật của ông có những hành động “ bất đắc dĩ”.

Cốt lõi là đằng sau tất cả sự vô ý trơ tráo ban đầu ấy, ở cô gái tiềm ẩn một cái gì kín đáo, e dè, rất nữ tính. Cô ngồi “ chớm” ở mép giường, mặc cảm pha lẫn sợ sệt khi lần đầu tiên về nhà chồng. Thái độ điềm nhiên của cô gái khi đón bát cháo cám từ tay mẹ chồng nói lên một điều rất đáng yêu ở con người này. Nếu như Tràng nhăn mặt thì cô cúi đầu lặng lẽ húp bát cháo. Cô hiểu gia cảnh nhà chồng và hồn nhiên hòa nhập với cái đói khổ đó. Cô gái chứng tỏ là một nàng dâu hiền thục, đã phủ nhận cái nhìn và ấn tượng ban đầu của người đọc truyện.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về quan niệm: Muốn có hạnh phúc thì phải kiếm được nhiều tiền, vì có tiền là có tất cả - Văn hay lớp 12

Vợ nhặt không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm giá đáng quý của con người mà còn giúp chúng ta hiểu được khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi cuộc đời họ. Cuộc hôn nhân lạ lung của của Tràng với người vợ nhặt ngoài đường là một minh chứng không phải trước đó Tràng không khát khao có một gia đình, có một người vợ chăm sóc mẹ anh lúc già yếu. Không phải Tràng không mơ về một ngày nhà cửa quang quẻ, đàn gà ấp nở trong sân, vợ chồng mẹ con vui vầy. Cái cảnh chết choc, tiếng khóc tỉ tê, cái đói đã khiến con người ta có lúc tưởng như không đủ sức với tới hạnh phúc nhỏ bé ấy. Chỉ tới khi người đọc bắt gặp ánh mắt rạng rỡ, hân hoan của cả Tràng và bà cụ.Tứ trước ngọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng nỗi khát khao giờ phút đó đã cháy bỏng da diết như thế nào trong lòng họ. Hai hào dầu phung phí đổi lấy một chút “ sáng sủa” đón mừng hạnh phúc của con trai khiến bà cụ như khỏe lên trẻ lại.

Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hy vọng. Chủ nghĩa nhân đạo mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm vào nhân vật, tác phẩm của mình vừa trực tiếp thể hiện qua tâm trạng nhân vật, vừa gián tiếp qua bố cục câu chuyện. Chiều hướng vận động của thời gian trong truyện đi từ chiều tàn, đêm tối tới ánh sáng từ “ tuyệt vọng “ tới “ hy vọng”, từ “ một ngọn đèn” hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “ lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng.

Xem thêm:  Vào đại học liệu có phải là con đường lập nghiệp duy nhất của thanh niên? - Văn hay lớp 12

Tất cả là tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng mà một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và phải chăng qua “ lá cờ đỏ trên con đê” Kim Lân muốn báo trước một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc đời mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của “ ngọn đèn” vĩnh cửu là cách mạng?

Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, tinh nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi. Nhờ có giá trị nhân đạo mà qua hơn nửa thế kỷ nay, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với tình tiết của câu chuyện. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Mỗi khám phá mới mẻ của một nhà văn đều nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời.

Tóm lại, qua tác phẩm ta thấy nổi bật lên rằng giá trị nhân đạo nhân đạo của thời kỳ này không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, bộc lộ sự chống lại nguyên nhân gây nên nỗi khổ ấy. Đặc biệt, các nhà văn cách mạng đã tìm ra những giải pháp đưa con người ra khỏi bế tắc, tối tăm.