Liên kết trong văn bản

Liên kết trong văn bản

Hướng dẫn

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Liên kết là một trong những tính chất quan trọng nhất của văn bản. Không văn bản nào lại không có tính liên kết. Chính nhờ liên kết mà các câu trong văn bản mới có mối quan hệ chặt chẽ, trở nên có nghĩa và dễ hiểu; việc giao tiếp mới đạt mục đích.

Liên kết là mặt biểu hiện mang tính chất bề mặt, là sự thể hiện mang tính vật chất của sự thông nhất và hoàn chỉnh của văn bản.

2. Muốn cho văn bản có tính liên kết, người nói (hoặc người viết) phải làm cho nội dung của các câu, các đoạn thống nhất và gắn bó chặt chẽ với nhau bằng những phương tiện ngôn ngữ thích hợp.

II – HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU BÀI

1. Tính liên kết của văn bản

Đọc đoạn văn:

Trước mặt cô giáo, con đã thiếu lễ độ với mẹ. Bố nhớ, cách đây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nối lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mât con! Hãy nghĩ xem, En-ri-cô à! Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hanh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng đê cứu sống con! Thôi, trong một thời gian con đừng hôn bố.

a) Nếu bố En-ri-cô chỉ viết mấy câu như vậy, thì En-ri-cô chưa thể hiểu điều bố định nói.

b) En-ri-cô chưa hiểu ý bố, vì:

– Có câu văn nội dung chưa rõ ràng.

Xem thêm:  Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư)

– Giữa các câu còn chưa có sự liên kết.

c) Muốn cho đoạn văn có thể hiểu được thì các câu văn phải có nội dung rõ ràng và giữa các câu phải có sự liên kết.

2. Phương tiện liên kết trong văn bản

a) Trong đoạn văn trên, vì thiếu ý "sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố vậy" sau hành vi En-ri-cô thiếu lễ độ với mẹ và "Nhớ lại điều ấy, bố không thể nén được cơn tức giận đối với con" mà nó trở nên khó hiểu.

Muốn cho En-ri-cô hiểu được ý bố, phải bổ sung các ý trên.

b) Đoạn văn:

Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của đứa trẻ tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.

– Đoạn văn này thiếu liên kết vì giữa các câu không gắn bó gì với nhau.

– Đây là đoạn văn được lấy từ văn bản cổng trường mở ra. Để cho đoạn văn có nghĩa, chỉ cần thêm cụm từ "Còn bây giờ" trước câu thứ hai và thay từ "đứa trẻ" bằng từ "con" ở câu thứ ba.

c) Một văn bản có tính liên kết phải có điều kiện: Người nói (hoặc người viết) phải làm cho nội dung của các câu, các đoạn thống nhất và gắn bó chặt chẽ với nhau. Cùng với điều kiện ấy, các câu trong văn bản phải được kết nối với nhau bằng những phương tiện ngôn ngữ thích hợp (từ, cụm từ hoặc câu kết nối).

Xem thêm:  Quan hệ từ

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Dựa trên đặc điểm liên kết hình thức và nội dung, có thể sắp xếp lại các câu để thành đoạn văn như sau:

Một quan chức của thành phố đã kết thúc buổi lễ phát thưởng như sau: "Ra khỏi đây, các con ạ, các con không được quên gửi lời chào và lòng biết ơn đến những người đã vì các con mà không quản bao mệt nhọc, những người đã hiến cả trí thông minh và lòng dũng cảm cho các con, những người sống và chết vì các con, và họ đây này!". Nghe lời kêu gọi cảm động, hưởng ứng đúng biết bao nhiêu những tình cảm của mình, tất cả học sinh đều đứng dậy, dang tay về phía các thầy, các cô. Các thầy, các cô đều đứng dậy vẫy mũ, vẫy khăn đáp lại, tất cả đều xúc động về sự biểu lộ lòng mến yêu ấy của học sinh.

2. Tôi nhớ đến mẹ tôi "lúc người còn sống, tôi lên mười". Mẹ tôi âu yếm dắt tay tôi dẫn đi trên con đường lảng dài vả hẹp. Sáng nay, lúc cô giáo đến thăm, tôi nói với mẹ có nhỡ thốt ra một lời thiếu lễ độ. Còn chiều nay, mẹ hiền từ của tôi cho tôi đi dạo chơi với anh con trai lớn của bác gác cổng.

Đoạn văn trên chưa có tính liên kết về nội dung, vì nhân vật "tôi" đã nhớ đến người mẹ "lúc người còn sống, tôi lên mười" thì không thể "sáng nay", "chiều nay…" được nửa — mặc dù về hình thức, các câu văn này có vẻ rất "liên kết".

Xem thêm:  Ôn tập phần tiếng Việt (tiếp theo)

3. Để đoạn văn có tính liên kết chặt chẽ, có thể điền vào các chỗ trống của các câu như sau:

Bà ơi! Cháu thường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ổi mong tìm lại hình bóng của (bà) và nhớ lại ngày nào (bà) trồng cây, (cháu) chạy lon ton bên bà. (Bà) bảo khi nào cây có quả (bà) sẽ dành quả to nhất, ngon nhât cho (cháu), nhưng cháu lại bảo quả to nhất, ngon nhất phải để phần bà. (Thế là) bà ôm cháu vào lòng, hôn cháu một cái thật kêu.

4. "Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con "(Cổng trường mở ra – Lí Lan).

Nếu chỉ có hai câu được đặt cạnh nhau như vậy, có thể gây cảm giác rằng sự liên kết giữa chúng không chặt chẽ. Nhưng đọc tiếp câu sau: "Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra" sẽ thây hai câu trên thực sự có liên kết.

5. Câu chuyện Cây tre trăm đốĩ kể về một anh trai cày đã đẵn đủ trăm đốt tre nhưng không nhờ đến phép màu của Bụt thì ‘không sao có được cây tre trăm đốt. Câu chuyện đó giúp em hiểu thêm về vai trò của liên kết trong văn bản – đó là: Nêu không có liên kết, các câu sẽ tồn tại rời rạc với nhau, không thể trở thành một văn bản hoàn chỉnh.

Mai Thu