Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên)

Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên)

Hướng dẫn

PHÂN TÍCH

Hai câu mở đầu:

Quán rằng: “Gliét việc tầm phào,

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”.

Là một cách khái quát đến cao độ thái độ tình cảm của ông Quán mà cũng là của quần chúng nhân dân trước những điều xấu xa ở đời (ghét việc tầm phào). Việc tầm phào là những việc vớ vẩn bậy bạ, vô nghĩa lí. Đặc biệt hơn là ông ghét với một tinh thần không chút khoan nhượng, ghét tới mức độ mãnh liệt nhất, triệt để nhất (ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm). Chỉ trong hai dòng thơ lục bát, từ ghét xuât hiện đến bôn lần. Cùng với cách dùng điệp từ vừa nói, nhà thơ lạidùng lối diễn đạt bồi than tăng cấp nhằm thể hiện rõ nét mức độ tột cùng thái độ căm ghét của ông Quán.

Tiếp đó là tám câu thơ triển khai một cách cụ thế ý khái quát đã nêu ở hai câu đầu. Nhà thơ chỉ rõ ông Quán ghét những người nào và vì ai mà ghét những người đó:

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U, Lệ đa doan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngủ bá phân vân,

Chuộng bề dối trá làm dân ìihọc nhằn

Ghét đời thúc quý phân băng,

Sớm dầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Mỗi cặp câu lục bát là một tích truyện dẫn từ đời xa xưa đời nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu bên Tàu. Phải hiểu dụng ý sâu sắc của nhà thơ về cách dùng những điển cô’, điển tích ở đây là ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời). Đó cũng là cách nói thông thường của các nhà thơ cổ điển. Phải hiểu là cụ Đồ đang nói chuyện về con ngươi và cuộc đời lúc đó.

Xem thêm:  Đọc thêm: Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Hương sơn phong cảnh ca)

Nhà thơ nhắc đi nhắc lại một điệp khúc dân, các tích truyện đều xoáy quanh một chữ dân:

… Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

… Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

… làm dân nhọc nhằn.

… lằng nhằng rối dân.

Đúng là “tiêu chuẩn ghét” ở đây đều nhất loạt xuất phát từ quyền lợi của dân. Tất cả đều vì dân mà ghét, ghét những kẻ làm hại dân, nhũng nhiễu dân. Mượn tích chuyện xưa, cụ Đồ Chiểu nói chuyện đương thời. Hồi Thiệu Trị, Tự Đức (các vua nhà Nguyễn) trị vì, triều đình chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, đổ tiền rừng bạc biển vào việc xây dựng lâng tẩm đền đài, quan lại tham nhũng, loạn lạc liên miên, cảnh tượng đúng như bài vè “Là cái thời Tự Đức”, khắc họa “Trời ảm đạm u sầu. Cảnh hoang tàn đói rét. Dân nghèo cùng kiệt”.

Mưòi bốn câu thơ tiếp theo nêu rõ những việc, những người mà ông Quán thương:

Thương là thương đức thánh nhân,

Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.

Thương thầy Nhan Tử dở dang,

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đã dành phui pha.

Thương thầy Đổng Tử cao xa,

Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.

Thương ông Hàn Dủ chẳng may,

Sớm dăng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liềm, Lạc đã ra,

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân…

Đây cũng đều là những người xưa, những người có tài năng đức hạnh lớn, dốc lòng phò vua giúp nước mà không được toại chí nguyện vì thời thế không thuận và nhất là vì hiển thần không gặp được “minhquân". Mỗi người một cảnh ngộ, nhưng đều là những số phận long đong bất đắc chi (Khổng Tử thì lận đận, Nhan Uyển chết yếu, Gia Cát không gặp thời, Đổng Trọng Thư bế tắc, Đào Tiềm không chịu được nhục phải từ quan, Hàn Dù can vua bị tội). Cách lựa chọn chi tiết điển hình, cách diễn đạt biến hóa sinh động của nhà thơ đã gây được ấn tượng đốì với người đọc. Nói lẽ ghét thương ở đây tuy là nói thương ghét qua sử sách: “Xem qua kinh sử mấy lần. Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương” nhưng ngẫm kĩ ra ít nhiều đều phù hợp với hiện thực đất nước và nỗi lòng của cụ Đồ trước thời thế lúc bấy giờ về mặt nghệ thuật, bao trùm cả đoạn thơ là lối dùng điệp từ: từ ghét, từ thương đều được lặp lại đến 8 lần mà không hề gây nhàm chán, trái lại cách lặp lại qua mỗi câu thơ tưởng như cả tám huyết của tác giả sôi trào nơi đầu ngọn bút. Rõ ràng ớ đây không phải là chuyện đạo lí, kinh sử khô khan thuần túy. Đoạn thơ thắm đượm sắc thái trữ tình đầy cảm xúc với ngôn ngữ bình dị thông thường, với bút pháp ước lệ. Nhờ sự chân thành nên thơ rất có hồn. Nguồn cảm xúc tràn đầy, sôi nổi trong tâm hồn nhà thơ đã làm nên giọng thơ, nhịp điệu thơ riêng, dồn dập mãnh liệt một cách tâm huyết, có sức chinh phục lòng người

Xem thêm:  Chí phèo

Mai Thu