Bài 26 – Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp)

Bài 26 – Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp)

Hướng dẫn

Những năm hai mươi của thế kỉ XX là thời kì các nước đế quốc thi nhau bành trướng, xâm lược, vơ vét của cải tài nguyên nhân lực của các thuộc địa. Cuộc sống của nhân dân nô lệ ở những nơi này vô cùng tủi nhục và cực khổ.

Trong tình hình đó, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), cuộc chiến tranh mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mỉa mai là “cuộc chiến tranh vui tươi”. Đó chính là cuộc xâu xé giữa các nước đế quốc đang giành giật ảnh hưởng quyền lợi. Cuộc xung đột ác liệt đó đẩy nhân dân lao động ở nhiều nước tư bản, người dân lao động nghèo khổ ở các xứ thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.

Đây chính là thời kì hoạt động sôi nổi của người thanh niên yêu nước, người chiến sĩ cộng sản kiên cường Nguyễn Ái Quốc. Trong thời kì này, Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm chính luận được Người viết bằng tiếng Pháp. Để hoàn thành tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã đọc rất nhiều tài liệu, tiếp xúc trao đổi với rất nhiều nhân chứng thể hiện qua tác phẩm rất nhiều con số cụ thể.

Bản án chế độ thực dân Pháp có nội dung phong phú gồm 12 chương và phần phụ lục. Mười hai chương vừa nói, nửa chương viết về một chủ đề. Cả tác phẩm là một bản cáo trạng phong phú, đanh thép về các tội ác tày trời của thực dân về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Qua tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện lòng căm thù sâu sắc, mãnh liệt đối với những thế lực thống trị tàn bạo, tình yêu thương sâu xa, thắm thiết đốì với những kiếp người nô lệ bần khổ. Bản án chế độ thực dân Pháp còn chứng tỏ ý chí chiến đấu giành độc lập tự do cho các dân tộc thuộc địa của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm này cũng thể hiện một nghệ thuật trào phúng đả kích sắc sảo đa dạng của Người.

Thuế máu là chương mở đầu. Qua đây, tác giả đã vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, các thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp trong việc sử dụng người thuộc địa làm vật hi sinh cho quyền lợi của mình trong các cuộc chiến tranh thảm khóc đã nói. Thuế máu lên án một trong những tội ác ghê tởm nhất của thực dân đế quốc là lợi dụng xương máu của những con người nô lệ, bần khổ.

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Nhận xét về cách đặt tên chương, tên các phần văn bản.

Tác giả đặt tên chương là Thuế máu. Thuế máu là cách nói của

Nguyễn Ái Quốc, ý chỉ một trong rất nhiều thứ thuế bất công vô lí mà người dân thuộc địa phải gánh chịu, một thứ thuế rất tàn nhẫn phũ phàng, đó là bị bóc lột xương máu và mạng sống. Cái tên Thuế máu do đó đã gợi lên trong lòng người đọc không chỉ số phận đen tối bi thương của người dân thuộc địa, mà còn hàm chứa cả lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với một trong những tội ác được xem là ghê tởm nhất của thực dân đế quốc.

Xem thêm:  Bài 18 - Nhớ rừng

Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương: Chiến tranh và người bản xứ, Chế độ lính tình nguyện, Kết quả của sự hi sinh không chỉ gợi lên quá trình lừa bịp bóc lột thuế máu đến tận cùng của bọn thực dân mà còn thể hiện tinh thần chiến đấu mãnh liệt, sâu sắc, sự phê phán, đả kích triệt để của tác giả.

2. Thái độ của các quan cai trị thực dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi có chiến tranh và khi chiến tranh đã xảy ra. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa.

– Trước khi có chiến tranh, người dân ở thuộc địa bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử tàn tệ, bị đánh đập như súc vật.

Khi chiến tranh bùng nổ, lập tức họ được bọn thực dân tâng bốc, vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý. Điều này cho thấy thủ đoạn lừa bịp của bọn quan cai trị thực dân với mưu đồ biến họ thành vật hi sinh.

Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được tác giả miêu tả:

– Phải rời bỏ, cách xa gia đình, xứ sở quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem sinh mạng đổi lấy danh dự hão huyền không đáng có.

– Là vật hi sinh cho lợi ích danh dự của bọn cai trị, phải chết thảm thương trên các chiến trường ác liệt, xa xôi: Ấy thế mà… lập tức… đi phơi thây, bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái, đưa thân cho người ta tàn sát, lấy máu mình tưới…, lấy xương mình chạm… Đoạn này giọng điệu của tác giả vừa giễu cợt vừa thật xót xa.

– Dù không trực tiếp cầm súng ra trận, nhưng nhiều người dân thuộc địa phải làm công việc chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh cũng gánh chịu bệnh tật, cái chết đau đớn.

Để làm rõ vấn đề, tác giả đã nêu lên một con số đáng chú ý về số người bản xứ đã bỏ mạng trong những năm Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất.

3. Nêu rõ các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của thực dân. Người dân thuộc địa có thực “tình nguyện” hiến dâng xương máu như lời lừa bịp của bọn cầm quyền không?

– Tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính với đủ loại: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, v.v..

– Lợi dụng chuyện bắt lính để bọn nhà giàu kiếm chác.

– Sẵn sàng giam cổ, trói, xích, nhốt người ta cho đến khi họ chọn một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra”.

– Tuy vậy, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa, lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền thực chất là một sự lừa bịp hết sức trơ trẽn.

– Sự thực đúng như “Thuế máu” đã phản ánh, không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu, mà người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí, tác giả cho biết họ còn phải tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.

Các lời tuyên bố trịnh trọng của thực dân cầm quyền được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với giọng điệu giễu cợt và phản bác lại bằng những thực tế hết sức hùng hồn chân thực.

4. Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh, cảnh đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi bóc lột hết “thuế máu".

Khi hết chiến tranh, những lời tuyên bố “tình tứ” của các ngài cầm quyền cũng bỗng dưng im bặt. Cả người Nê-gơ-rô lẫn người An-nam-mít mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.

– Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh máu xương chẳng hề mang lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí.

– Chính quyền thực dân trở mặt, tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ như đối với súc vật. Mặc nhiên họ trở lại “giống người bẩn thỉu, hèn hạ” như cũ.

– Bỉ ổi nhất là chính quyền thực dân còn cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con của tử sĩ người Pháp. Bọn chúng đã “không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi mình”.

5. Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.

a. Về trình tự bố cục các phần trong chương:

Chương 1 (Thuế máu) của Bản án chế độ thực dân Pháp được chia làm ba phần:

I. Chiến tranh và “người bản xứ’’

II. Chế độ lính tình nguyện

III. Kết quả của sự hi sinh.

Nghĩa là được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cách sắp xếp này có lợi thế trong việc phơi bày trọn vẹn bộ mặt giả nhân giả nghĩa một, cách trơ trẽn, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột “thuế máu”. Qua đó, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa cũng được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.

b) Về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả

Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của Nguyễn Ái Quốc trong văn bản trên thể hiện qua nghệ thuật xây dựng hình ảnh sinh động đặc sắc, ngôn từ thấm đẫm màu sắc trào phúng, châm biếm làm nên một giọng điệu trào phúng độc đáo.

Trước hết là hệ thống hình ảnh. Tác giả đã xây dựng được một hệ thống hình ảnh xác thực, vừa giàu tính biểu cảm vừa giàu sức mạnh tố cáo. Các hình ảnh ấy tự thân đã là những lí lẽ không thể chối cãi được.

Xem thêm:  Bài 34 - Luyện tập làm văn bản thông báo

Không chỉ mang tính chất xác thực, các hình ảnh ấy còn mang tính chất châm biếm đả kích, trào phúng sắc sảo một cách xót xa. Đặc biệt là các hình ảnh trong phần đầu, phần “Chiến tranh và người bản xứ” đã nêu bật được số phận thảm thương của người lính thuộc địa một cách đầy mỉa mai, chua chát và cay đắng.

Cùng với hình ảnh vừa nói, ngôn ngữ trong Thuế máu cũng thấm đượm màu sắc trào phúng, châm biếm thể hiện ở các từ: “con yêu”, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”, “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế”, “lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy”, “vật liệu biết nói”…

Những hình ảnh thể hiện qua những ngôn từ nêu trên đã tạo cho văn bản này một giọng điệu trào phúng đặc sắc. Tác giả giễu cợt mỉa mai: Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi bùng nổ… thì lập tức; Đùng một cái… Người đã nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân đã khoác lên cho người lính thuộc địa nhằm đả kích bản chất lừa bịp trơ trẽn của bọn chúng. Người đã rất thành công trong việc dùng giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác:

Nếu quả thật người An Nam phấn khởi, hào hứng đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập”“không ngần ngại”?

Tác giả đã khéo léo dùng nhiều câu hỏi liên tiếp để nêu lên sự thực nhằm đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn thực dân cầm quyền.

6. Nhận xét về yếu tố biếu cảm trong đoạn trích

Tuy là một văn bản chính luận nhưng tác giả đã khéo kết hợp phương pháp thuật kể với những câu chuyện, những chứng cứ cụ thể với cả những con số lấy từ thực tế không thể chối cãi được. Hơn thế nữa, Người còn dẫn cả ý kiến khác hay lời lẽ của chính đối tượng đả kích để làm tăng thêm tính xác thực.

Ngoài ra, trong văn bản trên, các hình ảnh được tác giả xây dựng đều mang tính biểu cảm cao. Qua đó nêu bật được số phận đáng thương của người dân thuộc địa và bộ mặt giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của nhà cầm quyền thực dân. Cũng từ đó người đọc đã nhận ra lòng căm phẫn kẻ thống trị hung bạo tàn ác, niềm xót xa cảm thương cho thân phận người làm nô lệ đã bị bóc lột “thuế máu” một cách dã man tàn tệ.

Đây là văn bản chính luận, nhưng ở đây các yếu tố tự sự và biểu cảm đã được tác giả kết hợp một cách chặt chẽ, nhuần nhuyễn và hài hòa.

Mai Thu